LÀM THẾ NÀO ĐỂ KIỂM SOÁT MỤN TRỨNG CÁ ?

 

Có khoảng 50 triệu người có các triệu chứng của mụn trứng cá. Đó là hiện tượng viêm mãn tính của da, bao gồm mụn đầu trắng, mụn đầu đen, mụn đỏ, mụn mủ hoặc nốt phồng nhỏ.  85% thanh thiếu niên báo cáo có mụn trứng cá, 12% người trưởng thành có thể vẫn còn bị mụn. Các yếu tố gây nên mụn trứng cá bao gồm tăng sừng hóa nang lông, sự xâm nhập của vi khuẩn , sự tăng tiết bã nhờn và sự viêm nhiễm.

Vi khuẩn gây ra mụn trứng cá phổ biến nhất là Propionibacterium (P) acnes – trực khuẩn kỵ khí gram dương. Hầu hết mụn trứng cá không được định danh vi khuẩn trừ khi phương pháp điều trị thông thường không còn tác dụng. Nồng độ Androgen cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành mụn trứng cá, nhưng hầu hết bệnh nhân đều có lượng hormon bình thường, vì vậy nồng độ androgen được sử dụng để điều trị hơn là chẩn đoán.

Chế độ ăn uống

Có bằng chứng cho rằng chế độ ăn uống có ảnh hưởng rất nhiều tới mụn trứng cá.  Một số tài liệu cho rằng những bệnh nhân có chế độ ăn uống chứa lượng đường cao thường dễ bị mụn hơn. Các nghiên cứu cho thấy những bệnh nhân có chỉ số đường huyết thấp có ít mụn trứng cá cũng như có chỉ số BMI thấp hơn, nồng độ androgen tự do giảm và sự nhạy cảm với insulin được cải thiện. Một số kết quả nghiên cứu cũng cho thấy sữa làm tăng mụn trứng cá, đặc biệt là sữa tách béo. Phụ nữ uống 2 ly sữa /ngày trở lên thì nguy cơ mụn trứng cá tăng lên đến 44%.

Điều trị tại chỗ

Liệu pháp đầu tay được lựa chọn dựa trên vị trí và kích thước vùng bị mụn. Benzoyl peroxide tiêu diệt P. acnes và thuốc mỡ trị mụn dịu nhẹ giúp ngăn ngừa sự hình thành của mụn và những đốm đen. Bệnh nhân có thể có kết quả như mong đợi sau  5 ngày sử dụng Benzoyl peroxide và nên sử dụng các chế phẩm dịu nhẹ hơn và kem thân nước nếu da nhạy cảm .

Các kháng sinh dùng ngoài da hiện có ở dạng kết hợp với benzoyl peroxide gồm clindamycin (ưu tiên hơn) và erythromycin . Axit Azelaic và axit salicylic đôi khi được sử dụng để diều trị mụn, nhưng axit azelaic có thể làm sáng da và nên được sử dụng thận trọng với tông da sẫm màu.

Retinoid dùng bôi ngoài chứa tretinoin, adapalene, và tazarotene; cả hai đều là thuốc chống viêm và điều trị mụn, đây là những thuốc điều trị tại chỗ có hiệu quả nhất.

Tác dụng phụ của Retinoids (AE) bao gồm khô da, tróc da, đỏ da, và kích ứng. Nếu bệnh nhân có bất kỳ các triệu chứng trên, nên giảm số lần sử dụng. Tretinoin không bền dưới ánh sáng nên phải sử dụng trước khi đi ngủ và không nên dùng cùng với benzoyl peroxide vì nó có thể bị bất hoạt. Tazarotene là thuốc thuộc nhóm X ( phân loại nguy cơ trên phụ nữ có thai), vì vậy tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nên được tư vấn cẩn thận khi kê đơn. Gel Adapalene 1% sử dụng được cho trẻ em dưới 9 tuổi, và tretinoin 0.05% kích thước micro sử dụng được cho bệnh nhân từ 10 tuổi trở lên. Tất cả các sản phẩm retinoid khác được chấp nhận dùng cho bệnh nhân từ 12 tuổi trở lên và hạn chế việc sử dụng chúng trong mụn trứng cá sớm. 

Điều trị bằng kháng sinh
Sử dụng kháng sinh toàn thân được chỉ định cho mụn trứng cá từ vừa đến nặng và nên kết hợp sử dụng với retinoid tại chỗ. Tuy nhiên, đơn trị liệu kháng sinh toàn thân không phải là liệu pháp chủ yếu vì sự phát triển vi khuẩn đề kháng và đã có báo cáo liên quan giữa sử dụng kháng sinh toàn thân và sự phát triển của bệnh viêm ruột, viêm họng và nhiễm Clostridium difficile. Những bệnh nhân đã bắt đầu dùng kháng sinh toàn thân nên được tái khám mỗi 3 đến 6 tháng và nên kết thúc trị liệu càng sớm càng tốt.

Kháng sinh đầu tay được sử dụng là Tetracycline, gồm có doxycycline và minocycline, tác động bằng cách liên kết với tiểu đơn vị 30S của ribosome vi khuẩn; chúng cũng có tác dụng chống viêm. Dược sĩ phải đảm bảo định liều chính xác cho bệnh nhân. Doxycycline có hiệu quả nhất ở liều 1,7 đến 2,4 mg/kg và có thể dùng một đến hai lần mỗi ngày. Điều quan trọng là phải thông báo cho bệnh nhân các tác dụng không mong muốn có thể xảy ra như kích ứng đướng tiêu hóa, mẫn cảm với ánh sáng và chóng mặt.

Nhóm Macrolid là nhóm kháng sinh lựa chọn thứ hai gồm có Erythromycin và azithromycin. Azithromycin được dùng 3 lần/tuần đến 4 lần/tháng để điều trị mụn trứng cá. Macrolide có thể gây kích ứng đường tiêu hóa,  trường hợp nặng gây rối loạn nhịp tim và thậm chí bị nhiễm độc gan.

Bactrim có thể có hiệu quả trong điều trị mụn trứng cá bằng cách ngăn chặn sự tổng hợp axit folic của vi khuẩn. Tuy nhiên, nó hiếm khi được sử dụng vì các thuốc khác đã được chứng minh hiệu quả hơn. Khi sử dụng bactrim bệnh nhân cần  được thông báo trước về tình trạng kích ứng đường tiêu hóa, mẫn cảm  với ánh sáng và các dị ứng ở da gồm có ngứa, tróc vảy, và phát ban đỏ. Hơn nữa, bactrim không được lựa chọn sử dụng lâu dài do một số ARD hiếm gặp nhưng vẫn có thể xảy ra như giảm bạch cầu trung tính, mất bạch cầu hạt, thiếu máu và giảm tiểu cầu.

Liệu pháp Hormon
Thuốc tránh thai dạng uống cũng có thể giúp ngăn ngừa mụn trứng cá bằng cách điều hòa nồng độ hormon. Bốn thuốc tránh thai hiện đang được FDA chấp thuận để điều trị mụn trứng cá là ethinyl estradiol / norgestimate, estradiol / norethindrone acetate / ferrous fumarate, ethinyl estariol / dropirenone và ethinyl estradiol / drospirenone / levemfolate. Các thuốc tránh thai này làm giảm sản sinh androgen và kết hợp testosterone tự do để ức chế  thụ thể androgen, ngăn ngừa mụn trứng cá do hormon gây ra.

Các dược sĩ nên khuyên tất cả các bệnh nhân rằng phải sử dụng thuốc tránh thai liên tục trong 3 tháng mới thấy được sự cải thiện tình trạng mụn trứng cá rõ rệt, nhưng khi kết hợp với phương pháp điều trị tại chỗ thì tình trạng mụn trứng cá được cải thiện sớm hơn. Bệnh nhân cũng nên được thông báo về các tác dụng phụ thông thường, bao gồm rối loạn kinh nguyệt, rối loạn tiêu hóa, chuột rút, buồn nôn, nôn mửa, đau ngực, và khí hư (âm đạo).

Uống thuốc tránh thai điều trị mụn rất hiệu quả, tuy nhiên bệnh nhân nên cân nhắc đến các nguy cơ và tác dụng phụ khi dùng thuốc. Các tác dụng phụ nghiêm trọng kéo dài bao gồm các cục máu đông, ung thư vú, ung thư cổ tử cung, khối lượng xương thấp, và giảm lượng estrogen tự nhiên.

Spironolactone cũng được chỉ định để điều trị mụn trứng cá vì nó là một chất đối kháng thụ thể aldosterone mạnh, làm giảm sự kết hợp của testosterone và dihydrotestosterone với thụ thể androgen trên tế bào da. Spironolactone có thể gây chứng vú to ở nam nên tránh sử dụng cho nam giới nhưng nhìn chung nó dung nạp tốt và có hiệu quả ở phụ nữ. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm lợi tiểu, rối loạn kinh nguyệt, đau ngực hoặc chứng vú to ở nam, nhức đầu, chóng mặt, và mệt mỏi. Nếu sử dụng đồng thời với thuốc tránh thai, bệnh nhân cần theo dõi tình trạng tăng kali máu; tuy nhiên, những bệnh nhân trẻ hơn hoặc khỏe mạnh thường không có vấn đề gì, và tăng kali máu tăng rất ít.

Isotretinoin
Isotretinoin là một đồng phân của acid retinoic và được FDA chấp thuận để điều trị các trường hợp mụn trứng cá nghiêm trọng đã kháng lại các phương pháp điều trị khác. Isotretinoin làm giảm tiết bã nhờn, thương tổn do mụn, sẹo, và thậm chí là có tác dụng an thần và chống trầm cảm.

Liều khởi đầu là 0,5 mg/kg/ngày và tăng lên 1 mg/kg/ngày đối với liều duy trì. Một số bệnh nhân có thể dung nạp được liều cao hơn, nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh nhân dùng liều duy trì cũng có tỷ lệ tái phát thấp hơn đáng kể và kiểm soát được tình trạng mụn trứng cá.
Các nhà cung cấp và bệnh nhân phải đăng ký vào hệ thống iPledge để hạn chế mang thai trong khi kê toa và sử dụng thuốc này do hậu quả gây quái thai : isotretinoin thuộc phân nhóm X/ phân loại nguy cơ trên PNCT. Ngoài việc tư vấn cho bệnh nhân về tác dụng phụ của thuốc (buồn nôn, khô da/ bong tróc da, dễ nóng giận, có ý định tự tử, trầm cảm), dược sĩ cũng nên khuyến cáo cả nam lẫn nữ nên sử dụng 2 biện pháp tránh thai khi một trong hai người đang dùng thuốc này. Hai biện pháp tránh thai phổ biến nhất là uống thuốc tránh thai và dùng bao cao su.

Mặc dù bệnh nhân đã đăng ký vào hệ thống iPledge nhưng gần 40% bệnh nhân thừa nhận đã quên uống một hoặc nhiều liều thuốc tránh thai mỗi tháng trong khi có 29% bệnh nhân không tuân thủ việc sử dụng bao cao su trong quá trình quan hệ. Khoảng 150 bệnh nhân có thai mỗi năm trong khi dùng isotretinoin do không tuân thủ biện pháp tránh thai và con của họ có tỷ lệ dị tật bẩm sinh cao, được ghi nhận rõ ràng từ khi isotretinoin được sử dụng vào những năm 1980.

Nhóm dịch: SVD3. Võ Đức Trí – SVD2. Huỳnh Thị Thúy Vi, Thái Thị Thu Hiền

Hiệu đính: SVD4. Lê Thị Minh Quý